Lịch sử chiếc bánh Red Velvet màu đỏ nổi tiếng

| 2K|froidgarcon
Không có mô hình nào tốt hơn cho nỗi ám ảnh thái quá của người Mỹ với chiếc bánh Red Velvet này bằng các sản phẩm tạo mùi hương thực phẩm. Nến red velvet, vodka red velvet, xịt phòng red velvet - thậm chí cả bột protein mùi red velvet cũng được tìm thấy trong siêu thị. Từ các hoạt động marketing cho đến cảm giác trong ẩm thực, đây là huyền thoại đằng sau chiếc bánh màu đỏ được yêu thích này.

//static.kites.vn/upload//2018/26/1529972791.a12cfdc2d7fe306ef34b6b0636e660d8.jpg

Chiếc bánh red velvet đầu tiên ra đời vào những năm 1800, khi các đầu bếp Mỹ cố gắng hoàn thiện công thức bánh của riêng họ. Sử dụng bột hạnh nhân, cacao hoặc bột bắp để phân hủy protein trong bột bánh, một kết cấu bánh mịn màng hơn được hình thành - được gọi là bánh nhung (velvet cake) - tiếp theo đó là bánh chị em (sister cake), bánh gỗ gụ (mahogany cake) và “thực phẩm của quỷ” (devil’s food cake). Tranh cãi về màu sắc của chiếc bánh: một số người tin rằng nó được tạo nên bởi phản ứng hóa học giữa cacao và axit, số khác cho rằng đó là tác dụng của đường nâu, trước đây được gọi là đường đỏ. Vào những năm 1930, bánh “thực phẩm của quỷ” (devil’s food cake) đã xuất hiện trên các tờ báo vùng Trung Tây và dọc bờ biển phía Tây, được xem như “bánh Giáng Sinh”. Một thời gian ngắn sau đó, chiếc bánh red velvet hiện đại đầu tiên được phục vụ ở Waldorf Astoria, sau đó tại trung tâm mua sắm Eaton ở Toronto.

//static.kites.vn/upload//2018/26/1529972789.dfe4b6f39aceb1f5a61b06fdd82c5c6f.jpg

Trong khi đó, tại Austin, Texas, người bán thuốc nhuộm thực phẩm và chiết xuất John A. Adams đã trở nên giàu có. Ông ta và người vợ Betty đã thử bánh red velvet ở Waldorf, theo lịch sử của Công ty Adams Extract. Năm 1938, chính phủ thông qua Đạo luật về Thực phẩm, Thuốc và Mỹ phẩm, thắt chặt các quy định về màu thực phẩm. Adams quyết định rằng red velvet sẽ là con đường dẫn ông tới thành công. Năm 1940, họ cho ra mắt công thức bánh red velvet sử dụng màu đỏ thực phẩm. Công thức được in trên card bán cùng với vanilla, màu nhuộm đò và mùi bơ nhân tạo - một chất phụ gia nổi tiếng vào Thế chiến thứ II khi bơ trở nên khan hiếm. Nó bao gồm một công thức cho icing, còn được gọi là sữa đun sôi đánh bông, được làm từ sữa, bột mì, bơ và đường. Red velvet trở nên nổi tiếng tại các gia đình ở Texas và các hội chợ bang Midwest, sau đó lan rộng đến miền Nam và tại đó trở thành món bánh phổ biến trong Ngày Giải phóng Nô lệ (Emancipation Day) và Ngày Juneteenth, tập hợp các món ăn màu đỏ tượng trưng cho máu đổ trong thời kì nô lệ và Nội chiến.

Nhưng bánh red velvet không phải lúc nào cũng nổi tiếng trong giới ẩm thực. Irma S.Eombauer viết vào bản in năm 1943 của The Joy of Cooking: “Rất nổi tiếng nhưng không phải với tôi, chiếc bánh này không được xem là một tiêu chí.”. James Beard cho tằng chiếc bánh “nhạt nhẽo và không chút thú vị”, và bánh red velvet đã phải đấu tranh để giành vị trí spotlight trong các cuốn sách nấu ăn vào những năm 1980 và đầu 1990s. Nhưng sau khi xuất hiện vào năm 1989 trong phim Steel Magnolias, nó đã trở thành ngôi sao. Năm 2000, Cake Man Raven tại Brooklyn bán red velvet cho những người nổi tiếng; tại New York, bánh red velvet của tiệm Magnolia trở thành top seller, đến nỗi họ đã thêm red velvet cupcake vào menu. Năm 2005, red velvet trở thành mặt hàng chủ lực của hầu hết mọi tiệm bánh cao cấp. Năm 2011, niều yêu thích của nước Mỹ với red velvet đã đạt tới đỉnh cao, với gà rán red velvet tại tiệm American Cupcake ở San Francisco; red velvet latte tại Dunkin’ Donuts; red velvet Pop-Tarts và trà red velvet tại The Republic of Tea. Và nếu bạn không thể rời khỏi chiếc bánh quyến rũ trong nhà bếp? Đừng lo, còn có body mist, lotion và son dưỡng môi mùi red velvet nữa!

Bài viết theo Culture Trip
0 bình luận
Sắp xếp: 
Thêm bình luận ...